SINH HOẠT HỘI
DÒNG THÁNG 02/2016
CHỈ VÌ TÌNH YÊU
Một
hình ảnh đẹp và khó quên, vì rất hiếm khi chứng kiến cảnh “rước dâu” long trọng
và đặc biệt như thế. Từ “rước dâu” được cha Phaolô Nguyễn Thọ chia sẻ trong
Thánh lễ an táng nữ tu Maria Huỳnh Thị Nhung lúc 9 giờ sáng ngày 16/02/2016.
Ngài ví: ngày chết như là ngày rước dâu,
ngày chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa: “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Chính Ngài là trung tâm. Vì
“Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như
không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết
cũng là chết cho Chúa. (Rm 14,8).
Vâng, người đi tu là hiện thân của Hội thánh sống trên trần gian. Chúa
Giêsu chính là bạn tình, chính Ngài diễn tả đậm đà tình yêu dào dạt đối với
chúng ta. Chính Ngài mới có thể nói rõ về bạn trăm năm của Ngài một cách đầy đủ
nhất. Các nữ tu là bạn trăm năm của Chúa Giêsu, chính tình yêu đã thúc đẩy các
nữ tu sống đời hiến dâng phục vụ.
Thánh sử Gioan đã định nghĩa: “Thiên
Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16). Đây là một chân lý
tuyệt đỉnh của đức tin.
Sống
trong sự thật và theo gương Đấng Tình Yêu, nữ tu Maria Huỳnh Thị Nhung đã đáp
lại tiếng gọi mời của Thiên Chúa sẵn lòng hiến dâng phục vụ trong Hội dòng Mến
Thánh Giá Qui Nhơn qua nhiều nỗi thăng trầm. Ngày 14/02/2016, lúc 14 giờ, Chúa
đã gọi chị lần nữa và hôm nay người nữ tu này thật sự hoàn toàn thuộc về Đấng
Tình Quân.
Cử hành Thánh lễ an
táng nữ tu Maria, có Đức Cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui
Nhơn chủ tế, cha Phêrô Đặng Son, Hạt trưởng hạt Tuy Hòa, cha Phêrô Hà Đức Ngọc,
chánh xứ Phú Hòa, cha Giuse Nguyễn Quốc Việt, Bề trên Dòng Chúa Cứu Thế tại
Châu Ổ và 12 linh mục trong Giáo phận, đông đảo chị em trong Hội dòng, các anh
chị cùng các bé cô nhi và bà con giáo dân hạt Quảng Ngãi đến hiệp dâng Thánh lễ
cuối cùng cầu nguyện cho người chị, người mẹ, người bà thân yêu đã âm thầm từ
giã mọi người sau những ngày Tết Bính Thân.
Cuộc đời của chị được
cô đọng trong những từ đơn sơ, gần gũi nhưng chất chứa tất cả tấm lòng của chị
là yêu thương, hy sinh và phục vụ. Chị chào đời ngày 01/02/1928 tại Mỹ Cang,
Tuy Phước, Bình Định. Ngày 25/02/1959, chị gia nhập Đệ tử viện
Gò Thị. Ngày 25/7/1972, chị tuyên khấn lần đầu. Chị phục vụ tại: Tuy Hòa, Mằng
Lăng thuộc tỉnh Phú Yên; Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Nam.
Năm 1974, chị đến Quảng
Ngãi phục vụ các em mồ côi, những em bị bỏ rơi từ lúc lọt lòng mẹ, những em dị
tật, chậm phát triển trí não... Kể từ đó, cuộc đời chị gắn bó với các em có
những hoàn cảnh đáng thương. Đặc biệt, trong những thập niên 70, 80 lúc giai
đoạn kinh tế khó khăn nhất, chị đã chịu thương, chịu khó, những đêm dài khó
ngủ, trăn trở để cùng các em tự kiếm nhà ở, ngày ngày cuốc xới, trồng tỉa dưới
nắng gió, đào từng củ khoai, hái từng cọng rau, bắt từng con cá, lo từng miếng
ăn, giấc ngủ cho các em… Vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, vì tình yêu tha nhân nơi
những mảnh đời bất hạnh, chị đã từng ngày phấn đấu với cái khó, cái khổ, một
lòng bảo bọc, chăm lo cho các em, bất chấp tất cả, miễn sao các em được ấm êm,
được yêu thương.
Ơn gọi của chị thật đặc
biệt, gần 50 năm sống cùng, sống cho các em cô nhi với nhiều hoàn cảnh rất
thương tâm. Chính lý tưởng Mến Thánh Giá, chính tình yêu là động lực giúp chị
vượt qua mọi gian truân để sống và phục vụ những con người nghèo khổ, bất hạnh
qua môi trường dưỡng dục trẻ mồ côi trong suốt thời thanh xuân của đời
chị.
Mảnh đất Phú Hòa thân
yêu là nơi chị dừng chân lâu nhất, nơi đây với bao kỷ niệm buồn vui của đời
phục vụ những con người thiếu may mắn, không nơi nương tựa. Năm 2010, tuổi già
sức yếu, chị được Hội dòng cho nghỉ dưỡng tại nơi chị đang phục vụ. Sớm hôm vui
vầy với đàn cháu nhỏ, những buổi kinh sáng, tối chị qui tụ các em lại cùng hiệp
thông lời kinh, tiếng hát dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, lời nguyện xin tha thiết
cho Cộng đoàn cô nhi viện này và cho mọi người được bình an. Chị được chị em
trong Hội dòng nâng đỡ, được các cháu cô nhi chăm lo. Chị sống những ngày cuối
đời trong thanh thản, bình an.
Chắc hẳn sự ra đi của chị là một thương tiếc, một
nỗi đau mất mát cho những người thân quen, cách riêng các em cô nhi của chị.
Chị đã để lại cho hậu thế bài học yêu thương, biết cho đi, biết phục vụ với
trái tim đong đầy lòng xót thương của một người bà, người mẹ, người chị nhân
từ, hiền hậu, hết lòng yêu thương và tận tụy với đoàn bé thơ. Chị đã nuôi dưỡng
các em cô nhi thành người, nay một số các em đã yên bề gia thất, có cuộc sống
ổn định và là những người đang phục vụ tốt cho xã hội, cho Giáo hội.
Trong khung cảnh Năm
Lòng Chúa Thương Xót, giữa tiết xuân ấm áp và sự trầm lắng của tuần đầu Mùa Chay, đoàn người hiệp ý tạ ơn Chúa với chị, cầu nguyện cho chị và
xin Thiên Chúa tình yêu thưởng công cho chị suốt chặng đường dài 88 năm yêu
thương, hy sinh và phục vụ.
CHA PHƯƠNG ANH
Cha
Gioan Baotixita Trần Anh Thư, Bề trên Dòng Gioan Tẩy Giả. Ngài là ân nhân của
Hội dòng, ngài đã âm thầm giúp đỡ các chị em trong công tác huấn luyện. Cha
cũng là nhạc sĩ với bút danh “Phương Anh”.
Ngày
26/02/2016, cha đến thăm Hội dòng, dâng Thánh lễ, gặp gỡ chị em Học viện, Tiền
tập Thanh tuyển chia sẻ những kinh nghiệm sống đời thánh hiến và dùng cơm với
chị em trong niềm vui thân thiện.
THƠ: CẢM
TẠ TRI ÂN
Đã
bao lần Sơ sẻ chia
Tình
cảnh người bệnh xa lìa quê hương
Xa
cha, xa mẹ vấn vương
Bởi
vì căn bệnh vô phương bấy giờ
Ngày
xưa thiếu thuốc ít thầy
Để
lại tàn tật đến ngày hôm nay.
Cùi
cụt mấy ai dám sờ
Noi
gương Thiên Chúa quý Sơ đỡ đần
Thương
người thắt thể thương thân
Không
sợ lây nhiễm hiến dâng cuộc đời
Thấm
sâu chân lý sáng ngời
Sống
đời thánh thiện Ngôi Lời thưởng ban
Kính
chúc quý Sơ bình an
Giàu
lòng nhân ái người phong vui mừng…
Qui
Hòa, 31/01/2016
Tâm tình cảm
tạ của bệnh nhân Lương Trường Sinh
Cảm
nghĩ: THẦY TÔI (TT)
Không
biết tại sao hồi đó lớp mình lại có quá nhiều kỷ niệm với Sr. Modestine. Có một
lần sau trận lụt lớn ở Gò Thị, nhưng
mình không nhớ chính xác lúc nào. Sau đêm hôm đó, đến phiên mình quét đàng
mương ở nhà bếp. Lúc đi đổ rác mình thấy một chiếc ghe nhỏ cột phía sau chuồng
bò. Bình thường thì chỗ này không sâu lắm, nhưng vì có trận lụt lớn tối qua nên
chắc ai đó dùng ghe nầy để đi chợ. Nhìn chung quanh không có ai bỗng dưng mình
có một ý nghĩ thật là “tuyệt vời”. Vậy là mình tìm quân sư để hội ý. Hôị ý
xong, hai đứa chuẩn bị lên đường thì bạn Th. xuất hiện:
-
Ê hai chị sắp “có chuyện” phải không? Cho em tham gia nữa nhé.
-
OK, vậy cậu có biết chèo ghe không?
-
Tớ ở Tuy Hoà nhưng đâu có phải là “cô gái sông Ba đầu búi tóc thon” nên làm sao
biết chèo ghe được.
-
Vậy cậu biết bơi không?
-
Chút chút.
-
Vậy thì đi, nhớ nghen, phận ai nấy giữ không ai cứu ai đâu nghen.
Trên
đường đi chị Ph., hỏi nhỏ:
-
Mi chèo ghe lúc nào vậy?
-
Em xạo đó, em chỉ thấy mấy người chỗ em chèo hồi em còn ở quê thôi, dễ ẹt mà,
em làm le với nhỏ Th. đó.
-
Vậy mi có biết bơi không?
-
Hình như có.
Th.
quay xuống phản pháo liền.
-
Thôi cha ơi, một là có hai là không, sao lại hình như, tớ nghi ngờ khả năng bơi
của cậu đó nghen!
-
Lòng tin sẽ làm được tất cả bạn thân yêu ạ. Đó là bạn tự nguyện chớ đây không
có năn nỉ à nghen!
-
Thôi, tớ lỡ leo lên lưng cọp rồi còn gì.
Xuống
đến chỗ ghe, chị Ph. ghé tai: “ Mi đạo diễn đó nghen, tớ không biết đó”
Vậy
là mình đương nhiên trở thành thuyền trưởng mà không cần phải qua trường lớp
nào cả. Ghe đi được một chút, nhìn cái mặt tái xanh không còn một giọt máu nào
của bạn Th. mình tức cười quá bảo: “ Mình hát bài đèo cao dô ta đi nghen.”
Chi
Ph. gạt phắt:
-
Lạc đề rồi mi ơi, rồi tự động cất tiếng hát: “Thuyền trôi triền miên trên
sông nhịp nhàng. Thuyền trôi lướt êm trong sương mơ màng, gió đưa con thuyền…
bỗng nghe bạn Th. la oái oái:
-
Ghe nghiêng rồi. Em sắp té, em sắp chìm nè.
-
Phải bình tĩnh, để tớ đổi bên là nó thăng bằng lại thôi mà.
Mình
chưa kịp làm gì thì cái ghe nó tự động lật úp xuống nước, bây giờ mình cũng
không nhớ là lúc đó mình đã uống bao nhiêu lít nước. Cũng may là chỗ đó không
sâu lắm. Mình chỉ nhớ rất rõ là mình vừa “vớ” được “một cái gì đó” và mình lấy
hết sức bình sinh cộng với bản năng sống còn để đè xuống và nhảy lên khỏi mặt
nước. Lên tới bờ mình mới biết đó là cái lưng bạn Th. thân yêu. Chị Ph. thì đã
nhảy được lên bờ từ lúc nào rồi, hai tên vội vàng lội xuống kéo bạn lên.
Vuốt
mặt xong là bạn ta lèm bèm: “Hai người nhận nước em đúng không? May chút xíu
nữa xong đời em rồi”
Cậu
hiểu lầm mình rồi, phải đè bạn xuống mình lên trước được rồi mới kéo bạn lên,
nếu không ba đứa chết chùm cả đám thì sao.
Tiếng
chuông vô lớp kết thúc cuộc tranh cãi, ba tên bây giờ mới nhìn lại “hình hài”
của mình. “Chao ôi, giờ anh văn của Sr. Mô”
Ba
tên chạy lên nhà tắm để giải quyết cái “body” đầy những hoa màu tốt tươi từ cái
chuồng bò.
Mà
thời đó mọi phương tiện tại nhà tắm đều
thuộc về thời tiền sử, nước muốn tắm hay giặt đồ thì phải bơm bằng tay và lọc
bằng phèn chua, mất nhiều thời gian lắm. Lúc đó ba tên chạy bạt mạng vào nhà
tắm đóng cửa lại.
Vừa
nghe tiếng chân của vị cứu tinh nào đó bước vào nhà giặt, bạn Th. kêu cứu liền:
-
Chị nào ở ngoài đó làm ơn vào nhà lấy dùm quần áo cho ba đứa em chút nghen.
Bạn
em rất là kỹ lưỡng tận tâm điểm danh rõ ràng và liệt kê những gì cần thiết.
Mình
nín thở nghe ngóng tiếng hỏi lại từ bên ngoài:
- Sao bây giờ chưa đi học mà còn ở trong
nhà tắm.
Bạn
em bực mình nạc lại
-
Trời ơi à, mượn thì làm ơn làm phước đi dùm cho một cái, còn hỏi đi hỏi lại
nữa.
Khi
tiếng chân đã đi xa, hoàng hồn lại mình bỗng dưng khám phá một điều rất ư là
khủng khiếp hơn là vừa bị chìm ghe vừa rồi. Đó là giọng nói sao nghe “ven ven”
như là giọng đọc những bài anh văn.
Chi
Ph. ở phòng bên cạnh nói vọng sang:
-
Ê hai bạn ơi hai bạn có nhận ra giọng ai không?
-
Đúng là số tụi mình xui tận mạng, đúng là “ân gia ngỏ hẹp” Sao trái đất tròn
còn con đường từ bếp lên nhà tắm sao hôm nay cũng tròn vậy trời?
Mình
lẩm bẩm than thở, gặp ai không gặp lại gặp sơ Mô.
Cuối
cùng ba thằng mình cùng vào lớp học vừa đi vừa lấm lét như ba tội nhân. Cho đến
cuối buổi học cũng không có gì xảy ra. Ba tên đều lẩm bẩm “thà là lên đoạn đầu
đài còn hơn bị án treo nó khổ cực là dường nào. “Cuối cùng phải đi xin lỗi sơ.
Khi
xin lỗi sơ, mình vẫn còn nhớ những lời ấy cho đến bây giờ.
“May mà chỗ đó nước cạn, nếu không rủi ro xảy ra chuyện gì thì sao, chứ không
phải vì các em vô phép sai sơ đi lấy đồ đạc gì đâu, lần sau đừng bao giờ dại
dột dám làm những chuyện nguy hiểm mà mình chưa bao giờ làm như vậy nhé.”
Chuyện
an toàn như vậy là nhờ sự cố vấn của một
người Thầy hiền lành nhất, đó là Sr. Félicienne thời đó dạy môn Việt Văn.
Hà
Nguyên
Truyện ngắn: EM
KHÔNG VỀ TẾT
Những ngày vui xuân êm đềm trôi
qua, kỳ nghỉ phép hằng năm cũng kết thúc, tôi chuẩn bị hành trang để lên đường
trở về cộng đoàn.
Đang loay hoay xếp nốt mấy cái
lặt vặt còn lại...
Bỗng chuông điện thoại reo—số mấy
lạ, ngập ngừng không muốn nhận máy, nhưng biết đâu là người quen lâu ngày—tôi
mở máy, giọng nói quen quen bên kia:
- Alô, chào chị, em Long nè! Chị
có về Tết không?
- A! Sao Long không về Tết? Họp
mặt tu sĩ giáo xứ, chị đảo mắt tìm hoài chẳng thấy Long đâu. Năm nay đi xứ hả?
- Dạ, dạ... Không. Em đang ở xa
chị à.
- Xa là ở tận đâu, hay là đang du
học bên trời Mỹ, trời Tây!
- Dạ, không, không... Chị đừng kỳ
vọng và nghĩ tốt cho em như thế, lâu nay em không liên lạc với chị là vì em có
lý do riêng.
- Ừm, không sao. Chị hiểu mà,
chúng ta là người tu với nhau khi nào cần thì gọi thăm là được rồi.
- Trời, không phải thế, em không
dám gọi chị là vì em đã, đã ra khỏi Dòng rồi.
- Ủa, từ khi nào?
- Từ sau Tết năm ngoái.
- Em có “bồ” hay sao mà bỏ tu
vậy?
-
Dạ không, cộng đoàn em ở chán lắm, mỗi người một phe, mỗi ông cha một
kiểu, mỗi ông thầy một tật, em mệt mỏi quá nên “ra” luôn sau kỳ nghỉ năm ngoái.
Một năm trời vật lộn với cuộc
sống, muốn ra ngoài để thay đổi, để thoát cảnh kỷ luật nghiêm ngặt, gò bó,
thánh thơi muốn làm những gì mình thích, tự do quyết định những ước muốn của
mình...
- Um, nhưng khi quyết định “ra” em có cầu
nguyện và đồng hành với cha Giám đốc Học viện, cha Bề trên không?
-
Có chứ, nhưng các Đấng đâu có quyết định gì, toàn là đưa ra những lý lẽ để bảo
vệ nhau thôi mà, có ai hiểu cho em đâu! Mà, chị ơi! Một năm trôi qua chẳng ngày
nào em được yên cả, tiếng chuông nhà nguyện vẫn đánh thức em đều đặn vào lúc 4
giờ sáng trong khi chuông báo thức của điện thoại em vẫn cài đặt lúc 6 giờ
sáng. Tiếng kinh phụng vụ vẫn cứ văng vẳng bên tai trong khi tiếng máy trong
công xưởng vẫn chạy đều. Những giờ suy gẫm, chầu Thánh Thể cứ lẩn quẩn trong ký
ức.
Và
ông cha Bề trên khó tính mà em không ưa tí nào vẫn dễ thương hơn ông giám đốc
công ty của em đang làm, ông kênh kiệu, hóng hách… Thầy quản lý keo kiệt, chi
li ngày nào vẫn thoáng hơn anh trưởng làm việc trong tổ. Bao nhiêu thứ dễ
thương, đáng yêu trong cộng đoàn ngày nào làm cho em đã không cảm nhận được thì
lúc này không còn nữa!
Điện
nước, internet, điện thoại, chi tiêu, qui luật, phép tắt trong cộng đoàn làm
cho em mất tự do, không dân chủ ngày nào vẫn chưa quá quắc bằng bà chủ phòng
trọ em đang ở… em nhớ cộng đoàn, Nhà Dòng quá!
Những
ngày Tết này, em muốn gọi về thăm cha mẹ mà em chẳng dám, ở nhà chắc cũng đang
lo lắng, đang nhớ đến em, nhìn nhóm tu sĩ trong xứ về thăm quê chắc mẹ em không
khỏi đau lòng nhớ em… nhưng, nhưng em không dám.
Nằm
một mình trong góc phòng trọ lúc này em nhớ quá, nhớ tất cả, nhớ bữa cơm thanh
đạm, đơn sơ nhưng tràn ngập tiếng cười nơi cộng đoàn, trong mái ấm gia đình
nhất là trong những ngày xuân. Mấy ngày Tết vừa qua em không về nhà, lòng em
tím ngắt! Bao kỷ niệm đẹp nơi mái ấm gia đình, nơi cộng đoàn tu viện, nơi quê
nhà giáo xứ cứ như làm cho tim em co thắt lại, tất cả như cuốn phim chiếu chậm,
nó cứ quay đi quay lại mà em tìm hết cách nó vẫn không dừng lại được.
-
Chị, chị còn nghỉ phép không? Chị dành chút thời gian thăm cha mẹ em giúp em
với.
-
Được, tối nay chị mới lên xe, chị ghé thăm nhưng em hãy sắp xếp thời gian về
thăm cô dượng đi. Chị không phải không có thời gian, nhưng em không thể, em đã
phản bội mọi người, đã tự mình bỏ ơn Chúa, em không dám đối diện với sự thật
này.
-
Một năm dài trôi qua trong luyến tiếc, mến thương, dày vò vì đã tự ý bỏ ơn gọi,
em có nhận ra nguyên nhân dẫn đến quyết định nông nổi này không?
-
Thú thật với chị, em đã bỏ cầu nguyện kéo dài, không còn muốn hy sinh như trước
đây dù em vẫn thích tu, những giờ chơi chung, làm việc chung hay giải trí chung
nó sao quá nặng nề; Các cha, các thầy sao mà họ như những con Robot với lập
trình sẵn, chẳng có chút tình cảm nào.
Và
lúc này ngẫm lại, đó là cái nhìn thiển cận em gán cho họ mà mỗi lần được đồng
hành em không hề nhận cho cha Giám đốc biết, em chỉ nói mọi sự đối với con đều
ổn… khi có những mâu thuẫn, hiều lầm em cứ cho rằng mọi người bỏ rơi em, họ chỉ
biết bênh vực nhau, mà đâu biết rằng em là đứa út trong cộng đoàn được cả nhà
yêu thương đâu!
-
Chị ơi, ngày em quyết định bỏ Dòng ai cũng ngỡ ngàng, mỗi người, từng người
trong cộng đoàn ôn chặt lấy em nhưng cái ôm lúc ấy sao cứng đờ vô cảm không
hồn. Lúc này nhìn lại em mới thấm thía: “Một bàn tay dù to thế nào cũng không
thể giữ một bàn tay đã không muốn nắm. Một vòng tay dù có rộng bao nhiêu cũng
chẳng thể ôm trọn một người đã muốn rời đi”
Lê
Bạch Tuyết